Mình không hay gói thời gian và ít thấy sự xếp nếp cho tháng năm đời người vào các mốc xã hội dấy lên nỗi niềm riêng tư gì. Nhưng khi bắt gặp “Có một dòng sông đã qua đời” của Trịnh Công Sơn ý niệm nhân sinh bỗng hiển hiện quãng đời 10 năm. Mười năm của mình là “có một dòng sông đã qua đời”…. Những rụng rơi, rời rã khoác lên mình trạng thái mênh mông, se thắt nhường ấy chỉ có thể là tấm chữ này: Mười năm xưa đứng bên bờ giậu Đường xanh hoa muối bay rì rào Có người lòng như khăn mới thêu
Mười năm sau áo bay đường chiều Bàn chân trong phố xa lạ nhiều Có người lòng như nắng qua đèo Mình không biết hoa muối là gì nhưng hình ảnh “….bên bờ giậu/ Đường xanh hoa muối bay rì rào” lại thân quen đến thế. Đó là cảnh tượng cứ chập chờn trong thớ lớp đất đai mồn một nay chẳng thể chạm với trừ một khoảnh khắc ấy ở Đà Lạt năm nọ. Nó làm mình nhớ lại ngày nhỏ mình thích tha thẩn ở bờ giậu ôm giấu bao chiếc hoa lạ, đôi sự nho nhỏ bất ngờ và thật nhiều giăng tơ sợi vàng dan díu - thức cây mình hay dỡ ra làm mì đồ chơi có cái tên thật diễm lệ giờ chữ nghĩa đã tan loãng vào vũng kí ức không tài nào vớt lên kết lại cho ra. Nên mình đồng cảm một xuất hiện rì rào, rung rinh ở nơi chốn như vậy: “Có người lòng như khăn mới thêu”. Nghệ thuật ngôn từ, rồi hình ảnh, âm thanh …v…v… đã tạo ra muôn vàn “lòng người”, làm cho thứ vô hình trở nên hữu hình và hữu ngôn trở nên vô ngôn… So sánh này Trịnh Công Sơn vẫn mới mẻ đến rùng mình khi trút cả khoảng thời-không rưng rưng sinh thể vào một vuông vải nhỏ nhắn. “Khăn mới thêu” tươi màu chỉ đơm nở nét vẻ họa tiết dệt nên tấm lòng ôm ấp, chan chứa gửi người, gửi đời. Hơi thở phơi phới, phập phồng lắm nhưng vẫn kiên nhẫn, tỉ mỉ uốn đọng vào đường kim mũi khâu cho thứ tình kia được đón nhận, chạm nâng trên đôi tay chầm chậm, rung rinh, trong ánh mắt dịu dàng, đằm thắm. Nồng nàn, hồ hởi lắm nhưng vẫn nhấc đặt, cất để ẩn hiện nơi bố cục, phối mầu làm nhịp điệu kia kịp vẫy gọi những thức động xôn xao. Thế rồi, “mười năm sau” thay hết khung cảnh bằng “áo bay đường chiều/ Bàn chân trong phố xa lạ nhiều”. Cuộc dâu bể của Trịnh Công Sơn không sắc nét thành các mảng đối lập, tương phản như “Một vùng cỏ mọc xanh rì/ Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu” (Nguyễn Du). Nó bừng thức giữa lòng trôi chảy rất đỗi bình thường đến nỗi dâu bể ở khắp ngóc ngách. Và quan trọng là dâu bể tràn đến cùng với con người. Tấm áo bay đường chiều chấp chới cái dõi theo mơn man níu tìm bóng hình quen nhưng chưa nhìn thấy mặt, chỉ nhìn bước chân đã nhói lên xa lạ. Sự mất hút thương mến, gần gụi làm hẫng hụt, gây nguồn cơn “lòng như nắng qua đèo”. “Nắng qua đèo” là một dịch chuyển sáng tối nhanh chóng, thấm thoắt nhưng dội vào con người cảnh quan dời đổi hùng vĩ, choáng ngợp. Nguyễn Du tạo dựng dâu bể bằng màu sắc, một cảm quan vẫn thuộc vào phân phối điển hình của thời trung đại. Trịnh Công Sơn chung chuyển dâu bể bằng ánh sáng, một vật chất mới sinh ra từ ngắm nhìn cá nhân. Với mình, màu trong vắt của Nguyễn Du thật xa xót, nghẹn ngào còn sự lật trở “nắng qua đèo” của Trịnh Công Sơn là đứt lìa, tê tái. Có điều, đứt lìa sinh ra cơ thể mới: Tóc người dòng sông xưa ấy đã phai, đã lênh đênh biển khơi Có lần bàn chân qua phố thấy người, sóng lao xao bờ tôi
Mười năm chân bước trên đường dài Gặp nhau không nói không nụ cười Chút tình dường như hiu hắt bay Người mười năm xưa “lòng như khăn mới thêu” chỉ thấp thoáng dáng đứng. Còn người mười năm sau đã hiện hữu mái tóc, bàn chân, mắt môi. Đó là hình hài bồi đắp từ nếm trải tình đời, tình người, đổi lấy từ phôi phai, “lênh đênh biển khơi” và dặm dài nhạt nhòa gắn bó…song vương vấn nhân tình. Cơ thể ấy không định vị theo trường nghĩ sinh học, xã hội chức năng cũng không có chỗ nào chưng thu sự nhìn. Cơ thể ấy là cả nông nỗi khôn nguôi khi “thấy người”, “gặp nhau”. Thấy người là vỗ đập “lao xao”, gặp nhau là “hiu hắt” bay. Ẩn dụ nhuần nhị khơi gợi tự nhiên những khoảnh khắc chênh chao có-không, nán lại-trút bỏ, lưu luyến-dư tàn, hi vọng-thất vọng, nặng lòng-nhẹ bẫng. Dù đã một phen thương hải biến vi tang điền nhưng tim ngây vẫn vì người mà dấy lên, chân luyện năm rèn tháng vẫn vì người mà dấn bước non tơ. Ấy vậy, “Gặp nhau không nói không nụ cười/ Chút tình dường như hiu hắt bay”. Con người của mười năm không cạn tình chỉ là đâu còn bám nổi vào nhau. Nỗi trống trải, hụt hẫng bao dung lấy “chút nghĩa cũ càng” cũng khó nén lại phút giây ngậm ngùi. Ca từ như bày ra một sự xác nhận cho người hữu tình: chẳng ai thay đổi hay bạc bẽo, có điều chút tình nhỏ bé lại xa vời đến thế, dễ bong nứt, hư vô là. Mười năm khi phố khi vùng đồi Nhìn nhau ôi cũng như mọi người Có một dòng sông đã qua đời…. Hình dung về “sông” người ta thường tạo ra ý niệm về cõi mênh mông, thường hằng, vượt thoát khỏi qui luật sống chết. “Sông” là khởi nguồn, không gian của biến thiên “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông” cho nên con người nhỏ bé trước sự bất tử được tạo ra bởi vô vàn phù du, thoáng chốc. Nhưng trạng thái nhỏ bé ấy đồng thời để lại một điểm tựa vững chãi giúp con người tồn tại ở cõi đời “những thăng trầm thời gian đã ghi tạc hình dáng”. Nhỏ bé mà vẫn can thiệp đáng kể. Trịnh Công Sơn thì khác “Nhìn nhau ôi cũng như mọi người/ Có một dòng sông đã qua đời”. Con người phải đưa tiễn một dòng sông và chạm đến sự mong manh, mất mát tột cùng. Hóa ra mình gắn được với đời sống là nhờ con người. Con người phại lạt thì mọi thứ bật rễ, từng mảng cảnh sắc cũng rớt rơi. Nơi mình có thể hít thở cũng lặng lẽ, hoang liêu, phiêu tán. Thứ làm thành cuộc đời mình gần mà xa, giống mà bất định, hữu hình mà không thể sờ nắm. Thực hết sức mà hư ảo rất mực. Tuy nhiên, bài hát Trịnh Công Sơn lúc nào cũng như hơi thở nhẹ, lời thủ thỉ hoặc cái bay lên của tâm hồn, suy tư. Nghe nhạc ông mình luôn cảm thấy chia sẻ, vỗ về, nâng đỡ. Ca từ có thể dựng cảnh thắt buốt nhưng hệ nối lại lỏng lẻo khiến từng câu phấp phới, bồng bềnh, nổi lênh theo mường tượng bất tận. Giai điệu lại ngân nga, dập dềnh. Hiền lành, yên ủi….