Hiểu về sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ Việt Nam
Các tượng Quan m Tọa Sơn đặc sắc như: ở chùa Đại Trà (Hải Phòng) thế kỷ XVI; chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh), chùa Tam Sơn (Bắc Ninh), chùa Đa Tốn (Hà Nội) vào thế kỷ XVII; chùa Cả, chùa Nhạ Phú, chùa Dương Liễu (Hà Tây) vào thế kỷ XIX. Một dạng rất đặc biệt là Quan m Tống Tử mà dân gian quen gọi là Quan m Thị Kính, ở chùa Tây Phương, chùa Mía và các chùa khác thuộc thế kỷ XVIII. Quan m Tống Tử hòa nhập với Quan m Thị Kính lại là một sáng tạo độc đáo nữa của văn hóa Phật giáo Việt. Câu chuyện Quan m Thị Kính liên quan mật thiết đến một ngôi chùa cổ ở miền Bắc nước ta, Pháp Vân tự (chùa Dâu, Bắc Ninh).
>>>>> Xem thông tin về sản phẩm tuong than tai

Phật Bà chùa Dâu được xem là Phật Bà Quan m Thị Kính, “Xem trong cõi nước Nam ta/chùa Vân có Đức Phật Bà Quan m”. Hình ảnh Quan m Thị Kính bồng con trên tay, qua nhiều dị bản rất gần gũi và tương đồng với những câu chuyện về Quan m Đồng Tử và Quan m Tống Tử. Theo các nhà nghiên cứu, tượng Quan m tay ôm đồng tử lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử tín ngưỡng tượng hình tại Việt Nam vào thế kỷ thứ XVII và đã trở nên nổi tiếng vào thế kỷ thứ XVIII, hiện nay vẫn còn bảo lưu tại nhiều chùa.

>>>>> Xem hình ảnh về tuong go

Quan m còn xuất hiện trong bộ Di Đà Tam Tôn (A Di Đà, Quan m, Đại Thế Chí) như ở chùa Thầy, chùa Bắc Lãm (Hà Tây) vào thế kỷ XVII, chùa Tây Phương (Hà Tây), chùa Phúc Khánh (Hà Nội) vào thế kỷ XVIII, và phổ biến trong các chùa thế kỷ XIX. Đáng chú ý trong các loại tượng Quan m Bồ tát ở chùa Việt là Quan m Chuẩn Đề, có nghĩa là “Tịnh Khiết”. Chuẩn Đề vẫn được hiểu là một pháp ấn được thể hiện bằng hai bàn tay chắp vào nhau đưa lên trước ngực, 2 ngón tay giữa dựng thẳng (tạo thành mũi nhọn của vajra - kim cương), các ngón còn lại đan vào nhau và quặp xuống, 2 ngón cái hoặc chắp dính vào nhau hoặc đan chéo nhau và gập lại.

>>>>> Thông tin về sản phẩm dogomynghe

Trong động Hương Tích - chùa Hương còn lưu giữ nhiều pho tượng quý, lừng danh nhất là pho tượng Phật Bà Quan m bằng đá xanh tọa lạc chính giữa tòa Tam bảo, tượng do Võ quan Nguyễn Huy Nhật cho tạc vào thời Tây Sơn năm Cảnh Thịnh thứ hai (1793) để cúng dường. Tượng gắn liền với truyền thuyết về Quán m Diệu Thiện. Quán m bản hạnh chép: Phật Bà là con gái thứ ba của vua Trang Vương, nước Hưng Lâm. Lớn lên, hai cô chị của Chúa Ba lập gia đình, ngán nỗi toàn gặp phải những chàng phò mã ham chơi. Vua Trang Vương ép Chúa Ba lấy chồng, những mong kén được người tài cho nối ngôi. Chúa Ba không tuân lời, nhất định xin đi tu để cứu độ gia đình và chúng sanh thoát khỏi tai ách. Trang Vương nổi giận sai đốt chùa, sát hại Chúa Ba. Trời Phạm Thiên bèn sai thần núi Hương Tích hóa thành chúa sơn lâm nhảy xuống cứu nạn Chúa Ba. Thần hổ cõng Chúa Ba về núi Hương Sơn, để bà tu hành ở am Phật Tích, Chúa Ba đắc đạo hóa thành Phật Bà ngàn mắt ngàn tay. Nơi đâu chúng sanh mắc nạn, Quán m Diệu Thiện ở chùa Hương Tích cũng nhìn thấy, vươn tay ra để cứu độ…