Công ty xử lý chất thải công nghiệp tai tp hcm mặc dầu mô hình tập trung các cơ sở cung ứng vào các khu công nghiệp (KCN) tạo tiện lợi cho quản lý chất thải tuy nhiên cho đến nay ngoại trừ các KCN thực hiện đúng điều khoản luật pháp về quản lý chất thải nhiều KCN vẫn chưa hoàn thiện các tòa tháp thu gom, xử lý chất thải tập trung. Việc xả khối lượng lớn lao các loại chất thải công nghiệp chứa hàm lượng lớn các chất ô nhiễm có độc tính cao đã, đang và sẽ là áp lực ngày càng lớn đến các hệ sinh thái tự nhiên, sức khỏe con người và gây tổn hại nhiều ngành kinh tế.

Về kiểm soát ô nhiễm do nước thải công nghiệp

với các KCN

Theo số liệu thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường(1)việc triển khai Chỉ thị số 07/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ trong công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là đầu tư và vận hành sơ đồ xử lý nước thải tập trung tại các KCN đang hoạt động, bước đầu đã có những kết quả tích cực.

Tính đến hết tháng 10 năm 2014, trong số 209 KCN đã đi vào hoạt động có 165 KCN đã xây dựng sơ đồ xử lý nước thải tập trung, chiếm 79% tổng số KCN đang tác động, tăng 6% với năm 2013. Tổng ngựa xử lý nước thải của các xí nghiệp xấp xỉ 630.000 m3/ngày.đêm. Với lưu lượng nước thải ngày nay của 165 KCN khoảng 350.000 m3/ngày.đêm, trong nếu tất cả các KCN đang hoạt động, lôi kéo đầu tư và được lấp đầy 100%, thì lượng nước bơm thải phát sinh khoảng 600.000 m3/ngày.đêm.

Tuy nhiên, trên thực tế nhiều KCN đã có trạm xử lý nước thải nhưng chưa hoạt động chuyên, nước thải sau xử lý chưa đạt QCVN. Đây là trường hợp các KCN Trà Nóc 1, 2 (Cần Thơ), KCN Thụy Vân (Phú Thọ), KCN Tam Điệp (Ninh Bình)...vẫn tồn tại tình trạng xả nước thải gây ô nhiễm môi trường. đặc thù các KCN chưa thành lập và vận hành trạm xử lý nước thải còn gây ô nhiễm môi trường lớn hơn như KCN Cầu Nghìn (Thái Bình) phát sinh trên 1.000 m3/ngày.đêm, KCN tự do (Kon Tum) đã đầu tư sơ đồ xử lý nước thải tập trung nhưng chưa có sơ đồ thu gom nước thải nên không thể vận hành còn.



=> xử lý chất thải công nghiệp - bảng giá xử lý chất thải nguy hại

Nhìn chung, các KCN thuộc vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam (Đông Nam Bộ), Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng tuân thủ quy định về đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung và bảo vệ môi trường tốt hơn các vùng khác trên cả nước; 95% các KCN ở vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam; 83% các KCN ở Đồng bằng sông Cửu Longvà 74,5 % các KCN ở Đồng bằng sông Hồng đã xây dựng và vận hành các trạm xử lý nước thải tập trung. Có tới 51 trong số 70 hệ thống xử lý nước thải tập trung ở vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam lắp đặt đồ vật quan trắc tự động. Điều này ưng ý với tình hình vững mạnh và lôi kéo đầu tư của các KCN tại khu vực. Các vùng trung du miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung do phát triển KCN muộn hơn và chính yếu đang trong giai đoạn xây dựng và từng bước lôi kéo đầu tư, nguồn nước thải phát sinh chưa nhiều.

với các cụm công nghiệp (CCN)

Việc đầu tư xây dựng hạ tầng bảo vệ môi trường triển khai chậm, trong đó thực hiện đầu tư trên cơ sở hỗ trợ từ ngân sách trung ương là chính. Tính đến tháng 10 năm 2014, trong tổng số hơn 600 CCN đang động tác, chỉ có khoảng 5% các CCN có sơ đồ xử lý nước thải tập trung, với các CCN còn lại, cơ sở sản xuất tự xử lý nước thải hoặc xả trực tiếp ra môi trường. Việc quản lý công tác bảo vệ môi trường tại các CCN rất yếu, do toàn bộ các CCN ngày nay đều do các cấp chính quyền là chủ đầu tư.

với các cơ sở phân phối nằm ngoài KCN, CCN

Các nhà cửa hạ tầng về quản lý nước thải và công tác kiểm soát ô nhiễm còn khó khăn hơn đối với các KCN. Sự cố xả thải của các mọi người chế tạo bột sắn ở miền Trung, Tây Nguyên, xả nước thải gây chết cá ở sông Trà của công ty đường Quảng Ngãi; đặc thù xả thải của công ty Vedan gây ô nhiễm nghiêm trọng sông Thị Vải là vài trong số các thí dụ về kiểm soát nước thải ở các cơ sở nằm ngoài KCN, CCN.

Về kiểm soát ô nhiễm do khí thải

Khí thải phát sinh từ từng dân dụng trong các KCN, CCN không thể được thu gom, xử lý tập trung nên hiện tại các nhà phân phối tự xử lý khí thải. vì thế, nếu các Ban quản lý KCN hoặc tập đoàn nào nghiêm túc thi hành các điều khoản, quy chuẩn về môi trường thì khí thải các người sử dung trongKCN đạt đề nghị về dừng cho phép theo các QCVN (thí dụ hầu hết các tập đoàn trong các KCN Vietnam - Singapore, Amata, Đồng Nai 2, Khu chế xuất Tân Thuận, KCN Bắc Thăng Long, các tập đoàn xi măng Holcim, Nghi Sơn…).

Ngược lại, nếu Ban quản lý KCN hoặc doanh nghiệp không thực hiện tốt các điều khoản luật pháp thì khí thải công nghiệp không đạt QCVN (thí dụ các người sử dung thép ở Thái Nguyên, nhiều người dùng xi măng ở Kiên Giang, Hải Dương, Ninh Bình...).

Về kiểm soát ô nhiễm do chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn nguy hại

Cho đến nay phần lớn các KCN, CCN chưa xây dựng các trạm hoặc điểm thu gom, trung chuyển và xử lý CTR công nghiệp, CTR nguy khốn. Công tác phân loại CTR công nghiệp, CTR nguy nan được thực bây giờ từng cửa hàng nhưng trên địa bàn toàn KCN và rộng hơn là toàn tỉnh/TP (ngoài trung tâm xử lý CTR Nam Sơn - Hà Nội) lại không có trung tâm tồn trữ, xử lý chuyên dụng.

bởi thế, hàng triệu tấn CTR công nghiệp (xỉ thép, bùn thải, vật liệu chịu lửa qua tiêu dùng…) đang tồn lưu tại các cánh đồng, bãi đất trống, phát triển nguồn ô nhiễm lớn, nguy hiểm cho con người, thiên nhiên và dùng đất. đông đảo đại lý cung cấp điện tử, hóa chất cần có trung tâm thu gom CTR NH tập trung nhưng địa phương không đáp ứng được yêu cầu này.

Thực trạng ô nhiễm môi trường do hoạt động công nghiệp

Tính đến nay có khoảng 79% tổng số KCN đang hoạt độngđã xây dựng sơ đồ xử lý nước thải tập trung, các nhà cửa này dù đã đi vào tác động nhưng nhiều KCN có tốt nhất xử lý không cao, chưa đạt pháp luật của các QCVN.Tại Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam nơi có tập trung nhiều KCN và dự án FDI lớn nhất cả nước, mặc dầu tỷ trọng thành lập hệ thống xử lý nước thải tập trung ở khu vực này cao nhất nước nhưng tình trạng vi phạm các lao lý về môi trường vẫn xảy ra.

Ô nhiễm do nước thải công nghiệp phối hợp với nước thải thị trấn đã gây ô nhiễm nghiêm trọng cho nhiều kênh rạch ở vùng ven TPHCM như Tham Lương, Ba Bò, Thầy Cai, An Hạ…. Nhiều công ty dùng các thủ đoạn thành lập hệ thống ngầm cứng cáp xả thẳng ra sông, rạch, chẳng hạn như cơ quan Hào Dương, Phạm Thu, Tường Trung, Tân Nhật Dũng tại TPHCM, hoặc lợi dụng thủy triều lên xuống để pha loãng nước thải chưa qua xử lý đưa ra môi trường như cơ quan cổ phần Sonadezi Long Thành - Đồng Nai(2).

đặc thù nghiêm trọng, công sở Vedan (Đài Loan) đã bơm xả trực tiếp một lượng lớn dịch thải sau lên men với nồng độ các chất ô nhiễm rất cao ra sông Thị Vải, gây ô nhiễm sông Thị Vải, trên một phạm vi rộng(theo kết quả thanh tra của Tổng cục môi trường ngày 6-9-2008). Ngày nay sông Thị Vải đã dần hồi sinh: ô nhiễm giảm rõ rệt, tôm cá lại tăng trưởng sau khi công sở này bị xử phạt, giảm xả thải vào môi trường).

Tuy nhiên, hiện tại ô nhiễm môi trường không khí không lớn tại các KCN có đầu tư và quản lý môi trường tốt (các chỉ số chất lượng không khí chung quanh trong nhiều KCN ở TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương đạt giới hạn cho phép theo QCVN05:2013/BTNMT, còn tốt hơn tại vùng ven các đường giao thông lớn). Trong khí đó ô nhiễm không khí tại các vùng ven các doanh nghiệp xi măng, thép, nhiệt điện … có khoa học lạc hậu, quản lý môi trường kém lại rất cao.
=> https://www.blogmamnon.top/2017/11/n...-giao-duc.html